16.1 CÁC PHƯƠNG PHÁP TIỆT KHUẨN
Một sản phẩm
được coi là vô trùng nếu nó hoàn toàn không chứa
bất kỳ sinh vật sống nào. Phương pháp
tiệt trùng là phương pháp làm cho một sản phẩm
trở thành vô trùng. Do không thể phá hủy toàn bộ lô
sản phẩm sau khi tiệt trùng để kiểm tra nên độ vô trùng của sản
phẩm vô trùng chỉ có thể đảm bảo bằng
cách áp dụng một qui trình sản xuất đã
được thẩm định thích hợp. Đối
với mỗi qui trình tiệt trùng đã chọn phải
tiến hành khảo sát để đảm bảo
hiệu quả tiệt trùng và tính toàn vẹn của
sản phẩm, bao gồm cả vật chứa và bao gói
bên ngoài, trước khi áp dụng vào thực tế. Trong
quá trình sản xuất phải tuân thủ đúng qui trình
tiệt trùng đã thẩm định. Nếu có thay
đổi lớn trong qui trình tiệt trùng, bao gồm
cả sự thay đổi kích cỡ lô, phải tái
thẩm định qui trình. Trong khi xây dựng qui trình
sản xuất thuốc vô trùng phải tuân theo các nguyên
tắc thực hành tốt sản xuất GMP, cụ
thể là:
- sử dụng công nhân lành
nghề đã trải qua quá trình huấn luyện thích
hợp,
- thiết kế nhà
xưởng phù hợp,
- thiết kế máy móc,
thiết bị sản xuất sao cho dễ vệ sinh và
tiệt trùng,
- áp dụng các biện pháp
phòng ngừa thích hợp nhằm làm giảm số
lượng vi sinh vật trong sản phẩm trước
khi tiệt trùng,
- thẩm định qui trình
sản xuất cho tất cả các công đoạn trong dây
chuyền sản xuất có nguy cơ nhiễm khuẩn cao,
- thiết lập và thực
thi chương trình giám sát chất lượng môi
trường sản xuất và các qui trình kiểm tra trong
quá trình.
Các phương pháp mô tả
dưới đây chủ yếu dùng để diệt
hoặc loại bỏ vi khuẩn, nấm men và nấm
mốc ra khỏi sản phẩm cần tiệt trùng.
Đối với các sản phẩm sinh học có nguồn
gốc từ người hay động vật, trong quá
trình thẩm định phải chứng minh khả
năng loại bỏ hay làm bất
hoạt virus của qui trình tiệt trùng.
Nếu có thể, nên
ưu tiên chọn phương pháp tiệt trùng sản phẩm
trong bao bì cuối. Nếu không thể sử dụng các
phương pháp khác, có thể loại vi khuẩn bằng
phương pháp lọc qua màng lọc giữ lại vi khuẩn
hay phương pháp sản xuất vô trùng. Trong mọi
trường hợp, vật chứa và nút đậy
phải có khả năng duy trì được tính vô trùng
của sản phẩm cho đến khi hết hạn dùng.
Mức
bảo đảm vô trùng
Sự khử khuẩn
bằng tác nhân vật lý và hóa học tuân theo qui luật
số mũ, do đó luôn luôn có khả năng còn vi sinh
vật sống tồn tại trong sản phẩm sau khi
tiệt trùng với một xác suất thống kê nhất
định. Mức bảo đảm vô trùng SAL (sterility
assurance level) của một qui trình tiệt trùng đã cho là
xác xuất tồn tại một đơn vị đóng
gói không vô trùng trong toàn bộ lô sản phẩm sau khi
tiệt trùng bằng qui trình đó. Ví dụ: SAL = 10-6
có nghĩa là có khả năng có không nhiều hơn một
vi sinh vật sống trong 1 x 106 đơn vị
đóng gói của sản phẩm đã tiệt trùng.
Đối với một qui trình tiệt trùng đã cho, SAL
phụ thuộc số lượng vi sinh vật có trong sản
phẩm trước khi tiệt trùng, sức đề kháng
của nó với tác nhân tiệt trùng và môi trường trong
đó vi sinh vật tồn tại trong quá trình xử lý. Khi
có thể, sử dụng mức bảo đảm vô trùng
SAL để đánh giá hiệu quả tiệt trùng của
các phương pháp mô tả trong chuyên luận này. SAL
của mỗi qui trình tiệt trùng được thiết
lập trong khi thẩm định qui trình.
Phương pháp và điều kiện
tiệt trùng
Tiến hành tiệt trùng theo
một trong các phương pháp giới thiệu
dưới đây. Có thể cải tiến hoặc
kết hợp các phương pháp đã giới thiệu,
tuy nhiên phải tiến hành thẩm định
phương pháp đã cải tiến để bảo
đảm hiệu quả tiệt trùng của phương
pháp cũng như để đảm bảo tính toàn
vẹn của sản phẩm cần tiệt trùng, bao
gồm cả bao bì sản phẩm. Đối với
mọi phương pháp tiệt trùng, phải theo dõi các thông
số vận hành quan trọng trong suốt quá trình tiệt
trùng của mỗi lô sản phẩm nhằm đảm
bảo các thông số đo được phù hợp
với các thông số kỹ thuật đã thiết lập
trước đó trong quá trình thẩm định
phương pháp, kể cả trường hợp tiệt
trùng trong điều kiện chuẩn.
Phương
pháp tiệt trùng sản phẩm trong bao bì cuối
Đối với
phương pháp tiệt trùng sản phẩm trong bao bì
cuối, điểm quan trọng cần phải chú ý là
sự phân bố không đồng đều của tác nhân
tiệt trùng trong buồng tiệt trùng. Với mỗi
sản phẩm cần tiệt trùng, có kiểu bao bì và kích
thước bao bì khác nhau, phải xác định
được vị trí mà tác nhân tiệt trùng khó luân
chuyển đến nhất trong buồng tiệt trùng (ví
dụ, vị trí có nhiệt độ thấp nhất trong
nồi hấp).
Tiệt
trùng bằng nhiệt ẩm
Phương pháp tiệt trùng
bằng nhiệt ẩm được tiến hành trong
một thiết bị chuyên dùng gọi là nồi hấp,
tác nhân tiệt trùng là hơi nước bão hòa dưới
áp suất cao. Đây là phương pháp ưu tiên chọn
lựa, khi có thể, nhất là đối với các dung dịch
nước. Điều kiện chuẩn của
phương pháp tiệt trùng bằng nhiệt ẩm là
đun nóng ở 121 oC trong ít nhất 15 phút
đối với các sản phẩm cần tiệt trùng là
dung dịch nước trong bao bì cuối. Có thể
tiến hành tiệt trùng ở điều kiện nhiệt
độ và thời gian khác với điều kiện
chuẩn nếu chứng minh được hiệu
quả của chế độ tiệt trùng đã
chọn. Phải khống chế số lượng vi sinh
vật trong sản phẩm trước khi tiệt trùng
bằng cách áp dụng qui trình sản xuất và các biện
pháp phòng ngừa thích hợp để đạt
được mức bảo đảm vô trùng SAL = 10-6
hay nhỏ hơn.
Trong quá trình tiệt
trùng, phải theo dõi và ghi chép lại nhiệt độ và
áp suất bên trong nồi hấp. Nhiệt độ
thường được theo dõi bằng các đầu
dò nhiệt đặt ở phần nguội nhất
của nồi hấp. Thông số vận hành của
mỗi chu trình tiệt trùng được ghi lại
dưới dạng biểu
đồ nhiệt độ - thời gian, hay bằng một cách thích hợp khác.
Nếu kiểm tra hiệu
quả của quá trình tiệt trùng bằng phương pháp
sinh học, dùng chỉ thị sinh học thích hợp theo
phụ lục Chỉ thị sinh học dùng cho tiệt
khuẩn.
Tiệt
trùng bằng nhiệt khô
Tiệt trùng bằng nhiệt
khô được thực hiện trong tủ sấy có
gắn thiết bị đối lưu không khí để
đảm bảo sự phân phối nhiệt đồng
đều trong toàn bộ khoang tiệt trùng. Điều
kiện chuẩn của phương pháp tiệt trùng
bằng nhiệt khô là sấy ở nhiệt độ
tối thiểu 160 oC trong ít nhất 2 giờ. Có
thể tiến hành tiệt trùng ở điều kiện
nhiệt độ và thời gian khác với điều
kiện chuẩn nếu chứng minh được
hiệu quả của chế độ tiệt trùng đã
chọn. Phải khống chế số lượng vi sinh
vật trong sản phẩm trước khi tiệt trùng
bằng cách áp dụng qui trình sản xuất và các biện
pháp phòng ngừa thích hợp để đạt
được mức bảo đảm vô trùng SAL = 10-6
hay nhỏ hơn.
Trong quá trình tiệt
trùng phải tiến hành theo dõi nhiệt độ bên trong
tủ sấy. Nhiệt độ thường
được đo bằng các đầu dò nhiệt đặt
ở phần nguội nhất của tủ sấy.
Phải ghi chép và lưu trữ
thông số nhiệt độ của mỗi chu trình
tiệt trùng.
Nếu kiểm tra hiệu
quả của quá trình tiệt trùng bằng phương pháp
sinh học, dùng chỉ thị sinh học thích hợp theo
phụ lục Chỉ thị sinh học dùng cho tiệt khuẩn.
Tiệt trùng và khử
chất gây sốt các dụng cụ thủy tinh
thường tiến hành ở nhiệt độ cao
hơn 220o C. Trong trường hợp này, có thể
thay chỉ thị sinh học bằng nội độc
tố vi khuẩn bền nhiệt. Để kiểm tra quá
trình tiệt trùng, cấy một hay nhiều vật liệu
cần tiệt trùng với ít nhất 1000 đơn vị
nội độc tố vi khuẩn. Lượng nội
độc tố còn lại sau khi sấy tiệt trùng
phải không được nhiều hơn 1/1000 so với
lượng nội độc tố ban đầu. Xem
phụ lục Thử nội độc tố vi khuẩn
để biết thêm chi tiết phương pháp
định lượng nội độc tố.
Tiệt
trùng bằng bức xạ ion hóa
Phương pháp này
được tiến hành bằng cách cho sản phẩm
trong bao bì cuối tiếp xúc với bức xạ ion hóa.
Hai nguồn bức xạ ion hóa thường dùng là : tia g phát ra từ nguồn phóng xạ thích
hợp (ví dụ đồng vị phóng xạ Cobalt 60), và
chùm electron năng lượng cao được gia tốc
bởi máy gia tốc electron.
Đối với
phương pháp tiệt trùng bằng bức xạ ion hóa,
liều hấp thu chuẩn là 25 kGy. Có thể tiến hành
tiệt trùng với liều hấp thu khác với liều
hấp thu chuẩn nếu chứng minh được
hiệu quả của chế độ tiệt trùng đã
chọn. Phải khống chế số lượng vi sinh
vật trong sản phẩm trước khi tiệt trùng
bằng cách áp dụng qui trình sản xuất và các biện
pháp phòng ngừa thích hợp để đạt
được mức bảo đảm vô trùng SAL = 10-6
hay nhỏ hơn.
Trong quá trình tiệt trùng
phải định kỳ đo bức xạ hấp thu
bởi sản phẩm cần tiệt trùng bằng
thiết bị đo liều thích hợp. Thiết bị
đo liều phải được hiệu chỉnh
với nguồn bức xạ chuẩn ít nhất mỗi
năm một lần.
Nếu kiểm tra hiệu
quả của quá trình tiệt trùng bằng phương pháp
sinh học, dùng chỉ thị sinh học thích hợp theo
phụ lục Chỉ thị sinh học dùng cho tiệt
khuẩn.
Tiệt
trùng bằng chất khí
Chất khí thường dùng
trong phương pháp này là ethylen oxyd. Đây là loại khí
dễ cháy, có khả năng gây đột biến và có
thể để lại vết chất độc trong
vật liệu đem tiệt trùng, do đó chỉ nên chọn
phương pháp này khi không thể chọn phương pháp
nào khác. Phải có biện pháp thích hợp để bảo
đảm sự thẩm thấu của khí và hơi
ẩm vào bên trong vật liệu cần tiệt trùng
cũng như làm giảm lượng ethylen oxyd hoặc
sản phẩm phân hủy của nó trong sản phẩm
đã tiệt trùng xuống dưới mức có thể gây
nguy hiểm khi sử dụng sản phẩm.
Khi có thể, nên theo dõi và ghi
chép nồng độ khí, độ ẩm tương
đối, nhiệt độ và thời gian tiệt trùng
của mỗi lô tiệt trùng.
Kiểm tra hiệu quả
của mỗi lô tiệt trùng bằng chỉ thị sinh
học thích hợp (xem phụ lục 16.2
Chỉ thị sinh học dùng cho tiệt khuẩn).
Tiệt
trùng bằng phương pháp lọc
Phương pháp lọc
thường được dùng để tiệt trùng các
dung dịch kém bền nhiệt, không thể tiệt trùng
trong bao bì cuối. Nguyên tắc của phương pháp là
dẫn dung dịch cần tiệt trùng qua vật liệu
lọc có khả năng giữ vi khuẩn. Vật liệu
lọc thường dùng là các màng lọc có kích thước
lỗ lọc 0,22 µm hay nhỏ hơn, có khả năng
giữ lại 100% vi khuẩn Pseudomonas
diminuta (ATCC 19146, NCIMB 11091, CIP 103020) trong điều
kiện thí nghiệm thích hợp. Kiểm tra khả năng
giữ khuẩn của màng lọc bằng cách lọc qua
màng lọc một hỗn dịch vi khuẩn Pseudomonas diminuta trong môi
trường nuôi cấy tryptone soya broth,
hay môi trường dinh dưỡng tương
đương, có nồng độ thích hợp sao cho
mỗi cm2 bề mặt màng lọc có ít nhất 107
cfu và tốc độ lọc lớn hơn 30 Psi. Ủ
dịch lọc ở 32 oC trong điều kiện
hiếu khí. Phải không được có vi khuẩn phát
triển.
Qui trình sản
xuất và môi trường sản xuất các sản
phẩm tiệt trùng bằng phương pháp lọc
phải được thiết kế thích hợp
để giảm thiểu tối đa sự nhiễm
khuẩn. Phải thường xuyên kiểm tra chất
lượng môi trường sản xuất bằng
một chương trình giám sát chất lượng môi
trường đã được thẩm định. Các
máy móc, thiết bị, vật chứa và nắp đậy
phải được tiệt trùng trước khi sử
dụng bằng phương pháp thích hợp. Vị trí
lọc tiệt trùng nên bố trí càng gần nơi đóng
ống càng tốt và thời điểm tiệt trùng nên
bố trí càng gần thời điểm đóng ống càng
tốt. Tất cả các thao tác sau khi lọc tiệt trùng
phải thực hiện trong điều kiện vô
trùng.
Cần có biện
pháp thích hợp để tránh sự hấp thu hoạt
chất trên màng lọc, cũng như để tránh sự
thôi tạp chất từ màng lọc vào dịch lọc.
Trước khi
lọc phải kiểm tra để đảm bảo màng
lọc không bị rách trong quá trình lắp ráp và tiệt trùng
hệ thống lọc, sau khi lọc xong cũng phải
kiểm tra tính toàn vẹn của màng lọc bằng
phương pháp thích hợp, ví dụ phương pháp
đo áp suất điểm sủi bọt (bubble-point test)
hay phương pháp đo chênh áp suất trước và sau
khi qua màng lọc (pressure hold test).
Vì hiệu quả
của quá trình lọc tiệt trùng phụ thuộc vào
số lượng vi sinh vật trong sản phẩm
trước khi lọc nên nếu không thể làm giảm
số lượng vi sinh vật bằng phương pháp
khác, nên lọc trước dung dịch cần tiệt trùng
qua tiền lọc có khả năng giữ khuẩn.
Sản xuất vô trùng
Trong quá trình sản xuất vô trùng, sản
phẩm chờ đóng gói, vật chứa rỗng và
nắp đậy được tiệt trùng riêng rẽ
sau đó kết hợp với nhau trong điều kiện
vô trùng để thu được sản phẩm
cuối. Bởi vì sản phẩm đã đóng gói không
được tiệt trùng bổ sung bằng bất
kỳ phương pháp nào khác nên quá trình đóng gói phải
tiến hành trong điều kiện môi trường có chất
lượng rất cao. Trước khi phối hợp,
mỗi thành phần của sản phẩm cuối phải
được tiệt trùng riêng bằng phương pháp
thích hợp, ví dụ bằng nhiệt khô với vật
chứa bằng thủy tinh, bằng nhiệt ẩm
với nắp đậy bằng nhựa và bằng
phương pháp lọc đối với các dung dịch.
Để duy trì tính vô trùng của mỗi thành phần trong
quá trình sản xuất phải chú ý đến các yếu
tố sau:
-
môi trường sản xuất,
-
con người,
-
các bề mặt tiếp xúc trực tiếp với sản
phẩm hở,
-
qui trình tiệt trùng các vật liệu bao gói và qui trình vận chuyển chúng vào khu
vực đóng gói,
-
thời gian lưu trữ tối đa của sản
phẩm chờ đóng gói trước khi đóng vào bao bì
cuối.
Để
đảm bảo tính vô trùng của sản phẩm
cuối, cả qui trình tiệt trùng và qui trình đóng gói
đều phải được thẩm định
bằng phương pháp thích hợp trước khi áp
dụng trong thực tế. Thẩm định qui trình
đóng gói phải bao gồm thử nghiệm dùng môi
trường dinh dưỡng nuôi cấy vi sinh vật thay
cho sản phẩm thật (media fill test). Phải lấy
mẫu để kiểm tra độ vô trùng tất
cả các lô của bất kỳ sản phẩm nào
được tiệt trùng bằng phương pháp
lọc và/hoặc sản xuất vô trùng trước khi
xuất xưởng. (Xem phụ lục Thử độ
vô trùng để biết thêm chi tiết).